Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) [BÀI VIẾT HAY]
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu để làm sáng rõ chí khí yêu nước thương dân, nguyện xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhà cách mạng lớn Phân Bội Châu. Đây là tiếng lòng,là khí khách của người con đất Việt không cam chịu trước cảnh đất nước lầm than, chịu ách đô hộ trong khi chưa tìm ra con đường để giải phóng dân tộc.
Cùng PUD Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để làm nổi bật giá trị của tác phẩm nhé !
1.Tác giả và tác phẩm
1.1. Tìm hiểu về tác giả Phan Bội Châu
Phan Bội Châu là một nhà chí sĩ, đồng thời cũng là một nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm để lại giá trị trong lòng độc giả. Phan Bội Châu được biết đến với sự thông minh, nét tài hoa, với tấm lòng yêu nước thương dân đồng thời cùng những tư tưởng tiến bộ vượt thời đại. Để phân tích bài thơ lưu biệt khi xuất dương, chúng ta cần tìm hiểu đôi nét về tác giả để thấy được ý nghĩa của tác phẩm này.
Phan Bội Châu không chỉ được biết đến với là nhà yêu nước mà còn được nhắc đến như một nhà văn lớn đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Một số tác phẩm nổi tiếng như “Việt Nam vong quốc sử” (1905), “Hải ngoại huyết thư” (1906), “Ngục trung thư” (1914)… Nhà chí sĩ ấy đã làm rung động biết bao tâm hồn và trái tim những con người yêu nước qua những tác phẩm sục sôi nhiệt huyết của mình.
1.2. Đôi nét về tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương
Lưu biệt khi xuất dương (Xuất dương lưu biệt) được nhà thơ sáng tác trong hoàn cảnh trước khi ông lên đường sang Nhật để chia tay bạn bè đồng chí. Tác phẩm chính là những suy nghĩ đầy mới mẻ cũng như khao khát hành động của nhà thơ cũng như những chiến sĩ cách mạng
2. Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu)
Bài thơ chính là những khát khao đồng thời là tư tưởng của Phan Bội Châu và các chí sĩ yêu nước khác. Khi phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương, người đọc sẽ cảm nhận về quan niệm làm trai, trách nhiệm của nhà thơ cũng như thực tại đất nước lúc bấy giờ.
2.1. Phân tích hai câu thơ đầu (hai câu đề): Quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu
+ Tác giả nêu lên quan niệm mới: là đấng nam nhi phải sống với khát vọng, mong muốn làm nên điều kì lạ : “ yếu hi kì”, không cam chịu để cho trời đất xoay chuyển mình.
⇒ Tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi phải tin tưởng ở mức độ và tài năng của mình ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai.
2.2. Phân tích hai câu thực: Khẳng định ý thức trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc
+ Câu 3: “Tu hữu ngã” (phải có trong cuộc đời) → ý thức trách nhiệm của cái tôi cá nhân trước thời cuộc, ý thức rõ vai trò, tầm quan trọng của cá nhân đối với vận mệnh trăm năm. Điều này đối lập với sự tự cao cá nhân.
+ Câu 4: Tác giả lại chuyển giọng nghi vấn “cánh vô thuỳ” (há không ai?) ⇒ khẳng định cương quyết hơn khát vọng sống hiển hách, phi thường, phát huy hết tài năng trí tuệ dâng hiến cho đời.
→ Ý thức sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó.

2.3. Phân tích hai câu luận : Quan niệm về nguyên tắc hành xử mới của Phan Bội Châu trước vận mệnh đất nước
+ Tình cảnh đất nước: “Non sống đã chết”, đất nước đã rơi vào tay giặc
+ Quan niệm mới mẻ, đối lập với các tín điều xưa cũ: ý thức về lẽ vinh nhục gắn với sự tồn vong của đất nước: “sống thêm nhục :
“Hiền thánh còn đâu cũng học hoài”
+ Người cách mạng cảm nhận sự tồn vong của mình trong mối quan hệ trực tiếp với sự tồn vong của dân tộc ⇒ hành động cởi mở, luôn tiếp thu những tư tưởng mới mẻ, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đối lập với quan điểm cứu nước trì trệ, lạc hậu của các nhà Nho đương thời.
2.4. Phân tích hai câu kết: Tư thế và khát vọng buổi lên đường
+ Tư thế lên đường của người chí sĩ thật sự hoành tráng:
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Tiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
+ Những hình tượng kì vĩ được sử dụng: “trường phong”- ngọn gió dài, lớn; “Thiên trùng bạch lãng” (ngàn lớp sóng bạc) ⇒ Tư thế hiên ngang, mong muốn lớn lao mang tầm vũ trụ của người cách mạng.
⇒ Tầm vóc của ý chí con người đã lớn lao hơn, không cam chịu trói mình trong khuôn khổ, vượt ra ngoài vòng kiểm tỏa
3. Kết bài
Khái quát về những nét đặc sắc nghệ thuật đem lại thành công cho tác phẩm. Khẳng định lại nội dung tư tưởng của tác phẩm và liên hệ về ý chí, khát vọng của con người trong thời đại hiện nay.
4. Bài văn mẫu:Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu)
Phan Bội Châu được nhắc đến là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có ý thức dùng văn chương để vận động, tuyên truyền cách mạng. Ông cũng chính là người khơi dòng cho loại văn chương trữ tình chính trị. Trong đó, bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là một tác phẩm tiêu biểu.
Đây là bài thơ được viết trong bữa cơm ngày Tết mà Phan Bội Châu đã tổ chức ở nhà mình để chia tay với các bạn bè, đồng chí trước lúc lên đường sang Nhật Bản năm 1905. “Lưu biệt khi xuất dương” đã thể hiện ý tưởng lớn lao, mới mẻ đầy trách nhiệm của tác giả, thể hiện niềm hăm hở, quyết tâm cao độ trong buổi đầu vượt biển đi ra nước ngoài để “mưu sự phục quốc”.
Chí làm trai đã được nhắc đến trong văn học từ thời xa xưa nhưng đặc biệt được đề cao ở thời kì chế độ phong kiến, thời kì đạo Nho phát triển mạnh mẽ. Nam nhi phải có công danh, sự nghiệp thì mới đáng làm trai. Chẳng vậy mà trong bài thơ “Tỏ lòng”, Phạm Ngũ Lão đã viết:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
Hay Nguyễn Công Trứ cũng từng viết:
“Chí làm trai nam, bắc, tây, đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.
Muốn trở thành bậc nam nhi được mọi người công nhận thì phải biết phấn đấu, lập được công trạng, có được danh vọng, có sức vóc “vẫy vùng” khắp bốn bể để chứng minh tài năng, bản lĩnh của bản thân. Kế thừa tư tưởng ấy của Nho giáo, Phan Bội Châu đã đưa ra một quan điểm về chí làm trai như một tuyên ngôn đầy khí thế:
“Sinh vi nam tử yếu hi kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”.
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)
Trước hết, ông cho rằng, làm trai phải “lạ”, có nghĩa là phải sống khác mọi người, không được giống với bất kì ai để tạo nên điểm riêng biệt. “Lạ” cũng có nghĩa là điều phi thường, hiển hách, xoay chuyển cả trời đất. Đó là lối sống chủ động, không chùn bước, nản chí để mặc cho hoàn cảnh chi phối mà phải có bản lĩnh để chi phối hoàn cảnh. Nhân vật trữ tình dám đối mặt với càn khôn, đất trời, vũ trụ để tự khẳng định bản thân, phấn đấu đạt được giấc mộng công danh. Phan Bội Châu ôm ấp khát vọng xoay chuyển được càn khôn chứ không để “càn khôn tự chuyển dời”. Ông không đầu hàng, khuất phục trước số phận, hoàn cảnh mà dùng chính khả năng của mình để thay đổi hoàn cảnh. Có thể nói, chí làm trai của ông là chí làm trai của một đấng nam nhi hiên ngang trong vũ trụ, dám ngạo nghễ và thách thức với trời đất.
Con người mang tầm vóc lớn lao, tầm vóc vũ trụ ấy luôn mang trong mình ý thức, trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?)
Trong cuộc đời trăm năm hữu hạn, Phan Bội Châu muốn cống hiến sức mình cho đất nước, làm nên những công trạng phi thường, lớn lao để xứng đáng làm một nam nhi lưu danh vào thiên cổ ngàn năm. Tác giả đã tự khẳng định bản thân mình, đây là cái tôi mang đầy trách nhiệm, chủ động tích cực chứ không phải cái tôi vị kỉ, chỉ biết lo nghĩ cho lợi ích của cá nhân. Ở hai câu thực có sự đối nhau hài hòa giữa sự vô hạn của thời gian và sự hữu hạn của đời người, Phan Bội Châu dùng cái phủ định để làm nền, làm nổi bật lên điều ông khẳng định. Ông muốn làm những điều phi thường, lưu lại tên tuổi của mình trong sử sách để không hổ thẹn với chí làm trai mà mình đã lấy làm lí tưởng sống. Cống hiến cho đời vừa là nghĩa vụ vừa là trách nhiệm của bậc trượng phu. Trong một trăm năm hữu hạn ấy, người nam nhi phải thực hiện được chí làm trai và cũng trong ngàn năm sau đó phải để lại được tiếng thơm cho đời. Hai câu thơ như lời thúc giục khơi dậy tinh thần xả thân vì nghĩa lớn của con người, đặc biệt là những thanh niên trai tráng phải góp hết sức mình vào công cuộc cứu nước, tìm ra hướng đi mới cho dân tộc.
Gắn với hoàn cảnh thực tại của đất nước, Phan Bội Châu đã nêu lên trách nhiệm mà người nam nhi cần có đối với vận mệnh dân tộc:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”!
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !)
Đất nước bị xâm lược, non sông cũng không còn nữa thì ta có sống cũng chỉ chuốc lấy sự nhục nhã, ê chề. Sách vở, người có học thức cũng trở thành vô nghĩa khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được ông đặt lên hàng đầu bởi ông ý thức được thời cuộc. Sách vở cũng không có ý nghĩa gì khi nước mất nhà tan. Việc làm quan trọng và thiết thực nhất lúc bấy giờ là tìm được con đường, hướng đi cho đất nước để thoát khỏi sự xâm lược, bóc lột của thực dân Pháp. Phan Bội Châu là một người yêu nước và ông cũng mong rằng phong trào Đông du do mình lãnh đạo sẽ gặt hái được nhiều thành quả giúp ích cho nước nhà. Bên cạnh đó, hai câu luận cũng có ý nghĩa thức tỉnh những con người có tấm lòng yêu nước. Đây cũng là lúc để họ xoay chuyển càn khôn, xoay chuyển cục diện, tình hình của dân tộc.
Hai câu kết của bài thơ đã thể hiện khí thế, sự quyết tâm cao độ trên con đường cứu nước mà mình đã chọn của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu:
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”.
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)
Ông có khát vọng lớn lao muốn đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông. Khát khao đó thể hiện ý chí, khát vọng hành động và tư thế của nhân vật trữ tình. Con người muốn bay lên cùng cơn gió để bắt kịp thời đại. “Bể đông”, “cánh gió”, “sóng bạc” là những hình ảnh thơ kì vĩ, hào hùng ẩn dụ cho khát vọng vượt lên hiện thực tăm tối để tìm đường cứu nước của Phan Bội Châu. Tác giả “nguyện” vì lí tưởng cao đẹp mà vượt qua tất cả những gian khó, thử thách để chạm được đích đến, hoàn thành chí làm trai của bậc nam nhi ở đời. Bản dịch thơ của Tôn Quang Phiệt tuy chưa dịch sát nghĩa của từ “nhất tề phi” nhưng cũng đã phần nào thể hiện sức mạnh, lòng yêu nước tràn đầy nhiệt huyết và tinh thần chiến đấu sục sôi của tác giả. Trong bối cản
h của thời đại mới, con người cần phải có những tư tưởng hành động bắt kịp thời đại, có như vậy mới tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn, mang lại sự tự do cho dân tộc. Và với Phan Bội Châu, con đường mới của ông là con đường sang Nhật Bản để học tập, chuẩn bị lực lượng hùng mạnh để nắm bắt thời cơ giành lại nền độc lập cho nước nhà.
Tư tưởng táo bạo đầy mới mẻ, khát vọng sục sôi và nhiệt huyết cháy bỏng của người chiến sĩ trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước sẽ sống mãi cùng thời gian và tới muôn thế hệ sau vẫn có sức lay động mãnh liệt. Phân tích bài thơ lưu biệt khi xuất dương đã giúp chúng ta cảm nhận được một tác phẩm đi cùng thời đại bởi một hồn thơ đa tài.
- Xem thêm >>> Thuyết minh tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi) sâu sắc nhất